TIẾP NHẬN 1 KHẨU SÚNG QUÂN DỤNG K54 CÙNG 10 VIÊN ĐẠN VỚI GIÁ 22 TRIỆU ĐỒNG

Hiện nay, hai loại súng ngắn phổ biến nhất được trang bị cho Quân đội Nhân dân Việt Nam là khẩu K54 và K59 và loại súng trường được biết đến rộng rãi nhất là AK-47.

Bạn đang xem: Tiếp nhận 1 khẩu súng quân dụng k54 cùng 10 viên đạn

1. Súng ngắn Tokarev TT-33 (K54)

Thông số cơ bản: trọng lượng rỗng/nạp đạn 0,84/0,91 kg; dài 194 mm; rộng 32,1 mm; cao 134 mm; nòng dài 116 mm. Súng dùng loại đạn 7,62 x 25 mm có sơ tốc 420 m/s; tầm bắn hiệu quả 50 m; tầm bắn sát thương 150 m, hộp tiếp đạn chứa được 8 viên.

TT-33 được sản suất và sử dụng với số lượng lớn trong Thế chiến thứ 2 với khoảng 600.000 khẩu trang bị cho Hồng quân. Tuy nhiên việc sản xuất đã bị ngừng lại từ năm 1954 do Liên Xô quyết định chuyển sang dùng súng ngắn 9 mm Makarov PM hiện đại hơn. Mặc dù vậy TT-33 vẫn tiếp tục phục vụ trong quân đội và công an Liên Xô đến tận năm 1970.

Thân súng TT-33 hoàn toàn làm bằng thép, máy súng khá đơn giản và tin cậy, không dùng một bulong hoặc đinh vít nào mà kết nối các bộ phận bằng các khe, rãnh, lẫy và chốt hãm. Việc tháo lắp, bảo dưỡng, sửa chữa cũng rất đơn giản khi chỉ cần sử dụng hộp tiếp đạn và tay không là có thể tháo rời khẩu súng thành từng bộ phận.

TT-33 sử dụng loại đạn chày đầu tròn 7,62 x 25 mm, cải tiến từ đạn 7,63 mm Mauser gồm 2 chủng loại chính là đạn xuyên và đạn vạch đường. Thiết kế điểm chạm của đạn trên mục tiêu có độ cao chênh lệch ăn lên 15,6 cm so với điểm ngắm (ở cự ly 25 m), cho phép người sử dụng có thể quan sát toàn bộ mục tiêu trong khi ngắm bắn. Mặc dù hộp tiếp đạn có sức chứa 8 viên nhưng có thể lắp thêm viên thứ 9 trực tiếp vào buồng đạn của súng.

*

2. Súng ngắn Makarov PM (K59).

Thông số cơ bản: trọng lượng rỗng/nạp đạn 0,73/0,81 kg; dài 161,5 mm; rộng 30,5 mm; cao 126,75; nòng dài 93,5 mm. Súng dùng loại đạn 9 x 18 mm có sơ tốc 315 m/s; tầm bắn hiệu quả 50 m; hộp tiếp đạn chứa được 8 - 12 viên.

Xem thêm: Máy Lăn Kim Giá Bao Nhiêu - Kim Lăn Chính Hãng, Khuyến Mãi Tháng 3 2023

Makarov (hay còn được gọi là PM) là loại súng ngắn bán tự động do Nikolay Makarov thiết kế vào cuối thập niên 1940. Việc chế tạo súng ngắn PM (Pistol Makarov) là kết quả của cuộc cạnh tranh cho vị trí khẩu súng ngắn dành cho sĩ quan Quân đội Xô Viết. PM được chọn vì có kích thước nhỏ, gọn, trọng lượng nhẹ; cấu tạo đơn giản, ít bộ phận chuyển động, kinh tế, dễ chế tạo, độ chính xác cao, sử dụng tiện lợi, dễ bảo quản, sửa chữa và điều chỉnh.

Thân súng PM nguyên bản làm hoàn toàn bằng thép, ở các phiên bản hiện đại hóa làm bằng hợp kim; có các khe, chốt, khoang để lắp nòng súng, bệ cò, vòng cò, bệ búa, khóa nòng, hộp tiếp đạn, ốp báng, chốt an toàn. Loại súng này được trang bị phổ biến trong quân đội và cảnh sát cho đến khi xảy ra sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991.

Súng ngắn Makarov sử dụng loại đạn 9 x 18 mm mới có giá thành sản xuất tương đối thấp, loại đạn này có sức xuyên phá mạnh ở tầm gần. Hộp tiếp đạn nguyên bản của súng sử dụng lò so đẩy thẳng với sức chứa 8 viên ( lên đến 12 viên ở phiên bản cải tiến), có chốt chặn khóa nòng báo hết đạn.

*

3. Súng AK-47

Súng Tiểu liên AK do Liên Xô sản xuất đầu tiên. AK viết tắt của Atomat Kalashnicov (súng Kalashnicov tự động), do Kalasnicov chế tạo năm 1947, còn gọi là súng AK 47, AK thường hay AK cỡ 7,62 mm.Sau này có một số súng được cải tiến như: AKM, AKMS, và nhiều phiên bản khác.- Súng AK trang bị cho từng người dùng để tiêu diệt sinh lực địch. Súng có lê để đánh gần.- Súng dùng đạn cỡ 7,62 mm x 39 mm kiểu 1943 do Liên Xô chế tạo hoặc kiểu 1956 do Trung Quốc chế tạo. Súng dùng chung đạn với các loại súng: Súng trường CKC, K63, trung liên RPD, RPK.- Tầm bắn ghi trên thước ngắm: 800m, AK cải tiến là 1000m.- Tầm bắn hiệu qủa: 400; hỏa lực tập trung: 800 m; bắn máy bay, quân nhảy dù: 500m- Tầm bắn thẳng: Mục tiêu cao 0.5m là 350m, mục tiêu cao 1.5m là 525m- Tốc độ của đầu đạn: AK:710m/s; AK cải tiến:715m/s- Tốc độ bắn chiến đấu: phát một: 40phát/phút, liên thanh: 100phát/phút.- Trọng lượng của súng là 3,8kg, AKM: 3,1kg, AKMS: 3,3kg.- Hộp tiếp đạn chứa 30 viên nặng 0,5 kg.

Súng ngắn K-54 là phiên bản chế tạo ở Việt Nam của khẩu súng lừng danh Tokarev thời Liên Xô. Một khẩu súng ra đời cách đây 84 năm và từng tham gia vào các cuộc chiến lớn nhỏ trên thế giới trong suốt thế kỷ 20!

Sau khi Liên Xô ra đời, các chỉ huy Hồng quân muốn tìm kiếm một khẩu súng ngắn mới để thay thế cho súng ngắn Nagant dùng trong quân đội Nga từ thời Sa Hoàng.

Nguyên do là súng ngắn ổ xoay như Nagant M1895 hoạt động tốt, bền nhưng thiết kế lại gây khó khăn trong việc nạp đạn và gây thất thoát năng lượng của đạn.

Xem xét tới những mẫu súng ngắn tiêu biểu của nước ngoài thời đó. Ví dụ như Mauser C96, người Nga cũng sử dụng khá phổ biến loại súng Đức này cùng với các biến thể của nó, súng có nhược điểm là thiết kế cũ, thô, to, nặng, tốc độ bắn chậm. Colt M1911 cũng bị cho là quá to lớn, FN 1903 thì lại hạn chế về sức mạnh hỏa lực, Parabellum 1908 là một mẫu súng chất lượng cao nhưng quá đắt đỏ và cần thời gian dài để chế tạo.

Hồng quân Liên Xô đưa ra tiêu chí cho súng ngắn loại mới phải là một vũ khí có tầm ảnh hưởng lớn qua kích thước nhỏ gọn, trọng lượng nhẹ, sử dụng dễ dàng, mẫu mã đẹp và quan trọng là thiết kế đơn giản để thuận lợi cho việc chế tạo, kể cả trong các xưởng quân khí tương đối thô sơ.

Một ủy ban phụ trách vấn đề này đã chọn mẫu súng của nhà thiết kế vũ khí nổi tiếng Fedor Tokarev. Khẩu súng này được chế tạo dựa trên những học hỏi từ Colt Browing 1911 và FN Model 1903, tuy nhiên các bộ phận đã được giản lược. Súng được chế tạo từ thép carbon, có xử lý bề mặt bằng quá trình oxy hóa độc đáo ngăn cản quá trình ăn mòn, han rỉ.

Sự khác biệt lớn nhất của thiết kế mới là về đạn, súng sử dụng đạn 7,62 x 25 mm được chế tạo lại từ đạn 7,63 x 25 mm của những khẩu Mauser. Ý tưởng này được đánh giá rất cao vì đạn Mauser vốn được đánh giá có uy lực lớn và còn rất nhiều trong kho vũ khí của Liên Xô. Nó đã tiết kiệm được một lượng lớn thời gian và chi phí cho việc chế tạo đạn.

Năm 1932-1933, thiết kế trải qua một số sửa đổi đáng kể nữa để từ đó gắn liền với cái tên TT-33. Súng dài 195 mm, chiều dài nòng 116 mm, trọng lượng 910g, hộp tiếp đạn 8 viên. Năm 1939 xuất hiện thêm phiên bản băng tiếp đạn 12 viên thay vì 8 viên ban đầu.

Khẩu TT bắt đầu tham gia vào các cuộc xung đột ở Tây Ban Nha, chiến tranh biên giới với Nhật, chiến tranh Mùa Đông với Phần Lan và đặc biệt khi bùng nổ Chiến tranh Thế giới thứ 2. Những năm tháng này, dây chuyền sản xuất súng Tokarev ở nhà máy Tula đã chạy hết công suất để có được 600.000 khẩu TT cho Hồng quân và 100.000 khẩu mỗi năm sau đó.


Năm 1941, khi Đức tấn công, Tula buộc phải di tản nhưng vẫn thực hiện được nhiệm vụ bảo dưỡng, sửa chữa những khẩu súng cũ. Cho đến khi quân Phát xít bị chặn đứng ở vòng cung Moscow, sản xuất dần dần được thiết lập lại. Những khẩu TT-33 giai đoạn này có ốp tay được làm từ gỗ. TT-33 đã gắn liền với hình ảnh những chỉ huy Hồng quân và những tiếng hô xung phong vang lên trên khắp các chiến trường.

Sau khi chiến tranh kết thúc, ngoài Tula, súng còn được sản xuất ở Izhevsk. Một vài cải tiến đáng kể được thực hiện vào năm 1946. Việc sản xuất TT-33 được chấm dứt vào năm 1953 cùng với sự xuất hiện của loại súng ngắn mới ưu việt hơn là Makarov. Tính tới thời điểm đó, khoảng hơn 1,5 triệu khẩu TT-33 đã được tạo ra. Súng Tokarev vẫn được biên chế trong quân đội Liên Xô đến nhưng năm 1960 và sử dụng bởi cảnh sát Liên bang cho tới năm 1970.


*
Bức ảnh rất nổi tiếng ghi lại khoảnh khắc chính trị viên sơ cấp Alexei Eremenko Junior Gordeevich phát động xung phong với khẩu TT-33 trong trận đánh ở Voroshilovgrad tháng 7/1942.
Sau khi Liên Xô tan rã, các băng nhóm mafia Nga bùng lên và hoạt động dữ dội, một trong những vũ khí yêu thích của chúng là khẩu Tokarev. Trong các vụ thanh trừng đẫm máu thường có sự góp mặt của loại vũ khí này, theo cảnh sát Nga, có đến 70% các vụ giết thuê, sát thủ sử dụng TT-33.

Một nhược điểm cố hữu của dòng súng TT khiến nhiều tai nạn đáng tiếc đã xảy ra là súng không có khóa an toàn. Búa được đưa về vị trí nghỉ giữa hai vị trí lên và đập, chính vì thế súng có thể nổ nếu chịu va đập, rung lắc mạnh. Cách duy nhất để giữ những khẩu súng này an toàn là tháo rời hộp đạn ra khỏi súng.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, Liên Xô bắt đầu trao giấy phép sản xuất loại súng này cho nhiều quốc gia đồng minh thuộc khối Warszawa cũng như Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Iraq… Phiên bản chế tạo ở Việt Nam và Trung Quốc, được sử dụng ở Việt Nam có tên là K54, còn ở Triều Tiên là Type 68 (K68).

Tổng cộng, thiết kế của Tokarev đã phục vụ trong quân đội của hơn 35 quốc gia với khoảng 3 triệu khẩu được sản xuất. Với các nhà sưu tập súng, đặc biệt từ Mỹ và phương Tây, TT-33 là một món hàng khó có thể bỏ qua.

Nói về chất lượng, những khẩu súng TT-33 được coi là tốt nhất là súng ở nhà máy Izhevsk trong giai đoạn 1947-1953, chúng có độ bền tương đương 10.000 phát bắn. Còn súng làm tại Tula thời trước CTTG 2 chất lượng cũng rất tốt nhưng trong giai đoạn chiến tranh, vì những khó khăn lớn, không thể có loại thép tốt làm nguyên liệu và yêu cầu phải sản xuất nhanh, nhiều, súng có chất lượng tồi, độ bền chỉ tương đương 700-800 phát bắn. Những phiên bản nước ngoài có chất lượng cao là loại Zastava M57 của Nam Tư và Tokagypt 58 của Hungary.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x

Welcome Back!

Login to your account below

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.